Khổ qua

Khổ qua là tên thuốc trong y học cổ truyền từ quả mướp đắng. Các nhà khoa học trên thế giới như Ấn Độ, Philipinnes, Brazil đã phát hiện trong quả mướp đắng có thành phần hóa học - chất charantin có tác dụng hạ đường huyết và nhiều tác dụng khác có lợi cho việc điều trị bệnh đái tháo đường. Đặc biệt, quả mướp đắng dùng ăn sống sẽ hấp thụ toàn bộ giá trị dinh dưỡng là phương pháp tốt để tận dụng nguồn vitamin C phong phú cùng với nhiều loại acid amin cần thiết cho cơ thể. Nghiên cứu gần đây phát hiện, mướp đắng có tác dụng giải trừ chất béo, mỗi ngày ăn từ 2 - 3 quả mướp đắng sẽ giúp bạn chống béo phì. Quả mướp đắng khi còn xanh chứa 188mg vitamin C. Nếu để chín, hàm lượng này giảm còn một nửa. Quả còn nhỏ có hàm lượng vitamin C cao hơn khi quả to. Bảo quản ở nhiệt độ lạnh có thể để được 4 tuần vẫn không ảnh hưởng đến hàm lượng của loại vitamin này.

Theo y học cổ truyền, khổ qua có vị đắng, tính lạnh không độc có tác dụng bổ dưỡng, thanh nhiệt, tiêu khát, nhuận tràng, giảm ho, lợi tiểu, giảm đau, trừ độc, rất tốt cho những trường hợp ăn khó tiêu, bụng đầy tức...

Thuốc thanh nhiệt, kiện tỳ, mát gan: quả mướp đắng ăn sống hoặc nhồi thịt băm đem hấp chín, ăn nóng.

Chữa ho, miệng khát, phiền nhiệt: mướp đắng 1-2 quả băm nhỏ, nấu với 400ml nước còn 100ml nước, uống làm hai lần trong ngày.

Chữa tiểu đường: quả mướp đắng còn xanh thái mỏng, phơi khô, tán bột. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4-6g. Uống sau bữa ăn.

Chữa rôm sảy: mướp đắng 2-3 quả, thái nhỏ, nấu nước tắm, lấy bã xát nhẹ trên da.

Chữa chốc đầu: nước ép quả mướp đắng bôi hàng ngày.

Kiêng kỵ: mướp đắng tính hàn, vì thế người có tỳ vị suy yếu không nên dùng, ngoài ra, phụ nữ mang thai cũng nên thận trọng.

DS. Nguyễn Thị Hồng

Các cổ phương chữa bệnh bằng mè

Hạt mè có tác dụng ích khí, dưỡng huyết, nhuận táo, bổ trung, hòa ngũ tạng, chữa được chứng phong thấp, lỡ ngứa và hư lao. Dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao dán nhọt.

Lá mè vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp. Nấu lá mè làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt, da mặt thêm tươi tắn. Nếu giã lá mè tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được bệnh rong huyết.

Nấu lá mè làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt, da mặt thêm tươi tắn

Theo “Bản thảo cương mục” hạt mè bổ dưỡng ngũ tạng, chưng với mật ong làm bánh chữa được “bách bệnh”. Sách “Nam dược thần hiệu” lại nói hạt mè vị ngọt, tính hàn, không độc, chất trơn, nhuận trường, giải độc, tiêu nhiệt kết, sát khuẩn, thúc đẻ, chữa mụn lở… rất công hiệu. Trong 2 loại mè trắng và đen thì mè đen giàu dược tính hơn nên thường làm thuốc chữa bệnh. Dưới đây là một số cách tiêu biểu chữa bệnh hiệu quả từ mè.

Ở Nhật Bản, muối mè là món gia vị bổ dưỡng và quân bình âm dương nên có thể dùng hàng ngày với bất cứ thức ăn nào, đặc biệt muối mè ăn với gạo lức là thực đơn căn bản của phương pháp thực dưỡng Ohsawa (ảnh, mè phải còn nguyên vỏ và muối phải là muối biển chưa tinh lọc đem rang).

Giáo sư Ohsawa còn bày cách dùng dầu mè làm một loại dầu nóng rất công hiệu gọi là “dầu mè gừng”: giã gừng tươi vắt lấy nước cốt trộn với một lượng dầu mè tương đương, dùng xoa xát hay đánh gió khi cảm, sốt; xoa bóp khi nhức mỏi, tức, trặc, sưng, bầm; bôi vết lở ở lỗ tai, mũi, ghẻ lác, xức dầu trị gàu và rụng tóc. Dưới đây là vài cách chữa bệnh từ mè theo cổ phương.

Chữa táo bón: táo vón biểu hiện đại tiện không ra, trong bụng tức ách, người bức bối khó chịu, nếu không chữa ngay sẽ trở thành chứng táo bón kinh niên. Cần dùng 1 chén dầu mè, hoặc nhai một nắm hạt mè trắng hay đen đều được vào mỗi buổi sáng, sẽ giúp đi tiêu dễ dàng...

Chữa viêm đại tràng mãn: dùng một thăng (ứng với 1 lít) mè đen rang có mùi thơm, cùng 1 chén mật mía. Mỗi lần uống lấy 1 thìa canh mè và 1/3 thìa canh mật mía trộn với nhau rồi uống, ngày 2 lần, uống trong 1 tháng sẽ khỏi.

Chữa trúng nắng ngất xỉu: theo “Nam Dược thần hiệu”, trời hè nóng nực người yếu khi ra trời nắng dễ bị trúng nắng ngất xỉu. Gặp trường hợp này lấy 1 thăng (1 lít), sao gần cháy, để nguội tán nhỏ uống mới nước mới múc. Mỗi lần uống 3 đồng cân (12g), rất công hiệu.

Chữa chứng ngộ độc nặng: theo “Nam Dược thần hiệu”, bị trúng độc nặng, đại tiện ra máu màu như gan hoặc nôn ra máu, đau bụng như cắt ruột, tức nghẹt, bụng trướng, rất dễ biến chứng do độc chất ngấm vào phủ tạng mà chết (nếu không chữa trị kịp thời), cần lấy ngay 1 bát dầu mè cho uống, chất độc sẽ nôn thốc ra được thì sẽ khỏi.

Chữa rụng tóc: theo “Hoa Hạ Kỳ Phương”, mỗi lần chải đầu tóc bị rụng nhiều hoặc sáng dậy thấy tóc rụng vương vải trên gối. Lấy 1 bát ăn cơm mè rang chín, tán nhuyễn thêm đường nấu uống tóc sẽ hết rụng và đen mượt.

Chữa tai bỗng bị điếc: theo “Nam Dược thần hiệu”, tai bỗng tự nhiên điếc, do thận bị bệnh làm thận khí và tâm khí bất giao (không giao thông với nhau) với nhau như bình thường. Vậy dùng dầu mè mỗi ngày nhỏ vào tai vài lần, mỗi lần vài giọt cho đến khi nào tai hết điếc thì ngừng.

Chữa đau răng: thường do hỏa trong người quá vượng mà phát nhiệt rồi sinh bệnh. Cần dùng 1 bát ăn cơm mè đen và 1 bát nước sắc còn lại 1 bát chia đều ra ngậm và súc miệng trong ngày nhiều lần. Sau khi súc miệng thì nhổ đi không nuốt. Chỉ cần 2 lần sắc thang này là khỏi đau.

Chữa bụng đầy trướng: theo cổ phương, lấy một bát ăn cơm mè đen, nấu thành cháo, thêm ít vỏ quýt thái nhỏ, múc ra để hơi nguội thì húp.

m hộ ngứa sinh lở: theo “Nam Dược thần hiệu”, lấy một nhúm mè, tự nhai nhuyễn đắp vào nơi ngứa lở vài làn sẽ khỏi.

Chữa ung thư (nhọt) vỡ phá miệng lâu ngày không thu: theo “Nam Dược thần hiệu”, dùng mè đen sao cháy, giã bột rắc vào sẽ thu miệng. Cách này rất hiệu nghiệm.

BS. HOÀNG XU N ĐẠI

Bài thuốc trị hôi nách

Hôi nách là một chứng bệnh ngoài da ấy thế mà nó làm cho không ít người buồn bực đến mất ăn mất ngủ. Điều oái oăm là mùi hôi ấy làm cho người bệnh khó chịu và rất bất tiện khi tiếp xúc với người khác. Nội kinh cho rằng hôi nách thuộc bệnh của can kinh, can có tà, khí tà lưu ở 2 nách mà gây mùi hôi.

Vị thuốc tân di.

Vị thuốc tân di.

Sau đây, xin giới thiệu với bạn đọc một vài phương thuốc trị hôi nách đơn giản để bạn có thể áp dụng khi cần:

Bài 1: Tân di, xuyên khung, tế tân, đỗ hành, cảo bản mỗi thứ 4g. Dùng giấm gạo để ngâm tất cả các vị thuốc trong một đêm cho nở, sau đó cho thêm nước vừa đủ rồi sắc lấy nước đặc. Mỗi đêm trước khi đi ngủ dùng thuốc này xát vào nách cho đến khi hết hôi. Năm vị thuốc trong phương này đều có vị cay, hương nồng, đồng thời có thể khu phong trừ thấp, hoạt huyết nên dùng chữa hôi nách rất hiệu quả.

Bài 2: Thanh mộc hương (còn gọi mật hương), hoắc hương, kê thiệt hương (tức mẫu đinh hương), hồ phấn (diên phấn) mỗi thứ 30g, tất cả nghiền thành bột mịn. Dùng vải bọc thuốc lại, để dưới nách hằng ngày cho đến khi không còn mùi hôi. Nếu thường xuyên dùng phương này có thể chữa được tận gốc chứng hôi nách.

Bài 3: lấy hồ tiêu (hạt tiêu) 14 hạt, hạt nhãn 6 hạt, hai thứ nghiền mịn, khi hố nách có mồ hôi thì dùng bột đó xát vào. Cách chế phương này rất đơn giản, hiệu quả chữa trị đáng tin cậy.

Bài 4: gừng tươi đem giã nát, vắt lấy nước cốt bôi vào nách. Hoặc thường xuyên dùng gừng tươi xát vào hố nách;

Hoặc: dùng thanh mộc hương xắt lát ngâm trong giấm một đêm, sau đó đem kẹp dưới nách, hiệu quả khá tốt.

Bài 4: phèn chua (khô phàn) đem phi lên rồi tán bột mịn xoa vào nách hằng ngày hoặc khi ra mồ hôi, hoặc sau khi tắm thì bôi vào nách.

Ngoài ra, có thể giảm bớt mùi hôi bằng cách hằng ngày năng tắm rửa, không uống rượu, không hút thuốc lá và chỉ nên ăn ít gia vị có tính kích thích như: tỏi, ớt, hành, kiệu... bởi vì những thứ trên có tác dụng tăng cường tiết mồ hôi, làm cho thành phần mồ hôi thay đổi khiến cho mùi hôi càng tăng thêm.

BS. Nguyễn Phương Hoa

Nhung hươu, nai: ôn thận tráng dương, sinh tinh, bổ tuỷ

Nhung hươu có nhiều chất vô cơ, hữu cơ, chất béo, acid amin, các men catalaza, peroxydaza, các chất hormon sinh dục nam và nữ (cholesterin, progestron, oestron và testosteron). Theo Đông y, nhung hươu vị ngọt, tính ôn; vào kinh thận, can, tâm và tâm bào lạc. Có tác dụng ôn thận tráng dương, sinh tinh, bổ tuỷ ích huyết. Dùng trong thận dương bất túc, tinh huyết hư, sợ lạnh, tay chân lạnh, đau lưng mỏi gối, liệt dương, tảo tiết, tiểu nhiều khó chủ động, da niêm mạc xanh tái, ù tai hoa mắt chóng mặt; nữ giới băng lậu đới hạ; trẻ em phát dục chậm, còi xương, chậm biết đi, chậm mọc răng; sợ lạnh nổi ban, vết thương mụn nhọt lâu lành, thiếu máu giảm bạch cầu, tiểu cầu. Liều dùng: Lộc nhung: 1- 4g, thường dùng làm thuốc hoàn và thuốc bột. Sau đây là một số cách dùng nhung hươu bổ thận tráng dương, dùng cho người thận dương suy nhược, liệt dương, đái són, váng đầu, ù tai, đau lưng.

Nhung hươu ngâm với mật ong và rượu bổ thận tráng dương, tốt cho người sợ lạnh, liệt dương, di tinh, thiếu máu…

Bài 1: lộc nhung sao với rượu, tán bột mịn. Mỗi lần uống 1 - 1,5g, chiêu bằng nước dâm dương hoắc (20g sắc lấy 1 bát nước). Trị liệt dương, đái són…

Bài 2: lộc nhung 1,5g, ô tặc cốt 20g, bạch thược 12g, đương quy 12g, tang ký sinh 12g, long cốt 12g, đảng sâm 12g, tang phiêu tiêu 12g. Các vị tán bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 - 8g, chiêu với rượu trắng hâm nóng. Trị di tinh, đái són.

Bài 3: lộc nhung 15g (thái nhỏ), sơn dược 30g (thái lát), 500ml rượu 35o. Ngâm trong 7 ngày. Uống trong 8 - 10 ngày. Dùng cho bệnh nhân liệt dương, di tinh tảo tiết, tiểu nhiều khó chủ động.

Bài 4: Thận dê hầm nhung hươu: lộc nhung 4g, thỏ ty tử 15g, tiểu hồi 9g, thận dê một đôi. Tất cả hầm nhừ, thêm gia vị thích hợp. Dùng cho người thận dương hư đau bại vùng thắt lưng, khi lao động gắng sức đau tăng.

Bài 5: Rượu mật ong nhung hươu: nhung hươu 15g, mật ong 100ml, rượu 250ml. Ngâm trong 12 ngày. Uống trong 10 - 15 ngày (ngày 10ml). Dùng cho những người sợ lạnh, lạnh tay chân, liệt dương, di tinh, thiếu máu (chóng mặt xây xẩm), đau lưng mỏi gối.

TS. Nguyễn Đức Quang

Quy tỳ thang

Như đã nói, bài thuốc dùng tốt cho cả nam lẫn nữ bị vô sinh hiếm muộn, thông qua phép bổ Tâm, Tỳ, Thận. Bài thuốc Quy tỳ còn dùng chữa cho những người thận yếu, kinh nguyệt khôngđều, rối loạn tiêu hóa, suy tim, có các triệu chứng như bệnh mạch vành trong y học hiện đại (đau ngực, khó thở…), người mất ngủ kinh niên, người căng thẳng quá độ…; uống thường xuyên tăng cường sức khỏe.

Vài nét lịch sử và lý luận

Quy tỳ thang do Danh y Nghiêm Dụng Hòa (đời Tống, Trung Quốc) lập phương, viết trong sách Tế sinh phương. Đây là bài thuốc kinh điển cả về cách xây dựng phương thang lẫn cách sử dụng. Bài thuốc đã tồn tại gần 1.000 năm, được nhiều danh y sử dụng và hiện vẫn chứng tỏ giá trị của nó dù xã hội có nhiều thay đổi. Mới đây, các nhà nghiên cứu tại Huế phát hiện tờ châu bản có bài Quy tỳ thang dùng để điều trị bệnh, bồi bổ sức khỏe cho vua Minh Mạng. Cũng tại Huế, người ta tìm được cứ liệu chứng tỏ Quy tỳ thang dùng chữa bệnh hiếm muộn, vô sinh rất hiệu quả.

Bài Quy tỳ thang được các thầy thuốc dùng chữa cho những người thuộc dạng bệnh: Tâm Tỳ lưỡng hư. Những người này có các triệu chứng: hư yếu, thể lực bị giảm sút, sắc mặt kém, thiếu máu, tinh thần bất an, đánh trống ngực dồn dập, hay quên, đêm ít ngủ, chân tay mệt mỏi, đại tiện có chiều hướng khó, ở phụ nữ thì kinh nguyệt thất thường, ở đàn ông thường bị chứng dương nuy, xuất tinh sớm...

Các thầy thuốc ngày nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các quy mô khác nhau dùng Quy tỳ thang để điều trị chứng mất ngủ, chứng thiểu năng tuần huần não, chứng thiếu máu... Tổng hợp những điều này cho thấy, Quy tỳ thang nếu vận dụng linh hoạt, gia giảm đúng với những trường hợp bệnh nhân cụ thể sẽ mang lại hiệu quả cao. Hơn nữa, tuy là cổ phương đã tồn tại gần cả ngàn năm nay, do công dụng đa dạng và hiệu quả cao mà Quy tỳ thang ngày càng được chú ý nghiên cứu trong chữa bệnh, trong đó có những bệnh mang tính “thời đại” như: mất ngủ do căng thẳng, lo nghĩ nhiều; hiếm muộn do suy yếu hao tổn Tâm, Tỳ, dẫn tới yếu Thận...

Theo lý luận của Đông y, Tâm chủ thần minh, dựa vào huyết để nuôi dưỡng; Tỳ chủ thống huyết, do khí mà nhiếp được huyết. Ở những người Tâm Tỳ lưỡng hư, Tỳ hư bất vận, mất nguồn sinh hóa khí huyết làm cho tâm thần mất nuôi dưỡng, thần minh không yên gây nên hồi hộp trống ngực, mất ngủ hay quên, mệt mỏi, uể oải, chân tay rã rời... Tỳ không vận hóa thì khí Tâm - Thận không giao nhau khiến vừa hư nhược Tâm vừa suy yếu Thận.

Phân tích bài thuốc

Bài thuốc: Táo nhân (sao đen): 12g, nhân sâm 12g, bạch truật (sao vàng) 12g, chích hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, long nhãn 12g, mộc hương 8g, phục thần 12g, viễn chí 12g, cam thảo 8g, đại táo 5 trái. Bài thuốc này được làm hoàn mềm.

Trong bài thuốc trên, nhân sâm có tác dụng “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách” để bổ khí sinh huyết, dưỡng tâm ích tỳ. Long nhãn bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần. Hoàng kỳ, bạch truật giúp nhân sâm ích khí kiện tỳ. Đương quy giúp long nhãn dưỡng huyết bổ tâm. Phục thần, viễn chí, táo nhân để ninh tâm an thần. Mộc hương để lý khí tĩnh tỳ, phối hợp với thuốc bổ khí dưỡng huyết làm cho bổ mà không nê trệ ở vị. Cam thảo ích khí bổ trung, điều hòa các vị thuốc. Theo lý luận của Đông y, bài thuốc chủ yếu dùng vị ngọt ấm ích khí, bổ trợ thêm các vị dưỡng huyết, an thần, lý khí. Tỳ khí vượng thịnh thì huyết có nơi sinh, huyết có nơi nhiếp; huyết mạch sung túc thì thần có nơi trú ngụ, huyết có nơi để quy tụ; cho nên bài thuốc này được gọi là bài “Quy tỳ thang”.

Trong thực tế điều trị vô sinh hiếm muộn cho cả nam lẫn nữ, qua nhiều năm kinh nghiệm với trên nhiều ca bệnh và qua nghiên cứu về y lý Đông y, chúng tôi đã gia các vị thuốc: thục địa 20g, liên nhục 20g, quế nhục 6g. Các vị thuốc này nhằm tăng cường bổ Thận âm (thục địa), bổ Tâm (liên nhục), tán hàn, làm ấm khí huyết (nhục quế).

Kết quả cho thấy, nhiều ca bệnh sức khỏe tăng toàn diện, ăn được, ngủ được, Thận mạnh lên tăng rõ rệt (cường dương, sinh tinh); nhiều ca rối loạn kinh nguyệt (kinh trước kỳ, vô kinh...) được điều trị khỏi hẳn.

BS. NGUYỄN PHÚ L M

(Chủ tịch Hội Đông y huyện Mang Thít, Vĩnh Long)

Bài thuốc quý chữa bệnh thần kinh và tim mạch

Bài thuốc cổ phương “Thiên vương bổ tâm đan” là bài thuốc dưỡng tâm an thần nổi tiếng, bài thuốc này được ghi chép lại sớm nhất trong cuốn “Nhiếp sinh bí phẫu” (sách y văn cổ đời Minh - Trung Quốc). Tác dụng chủ đạo của bài thuốc là bổ tâm an thần, tư âm dưỡng huyết. Ngày nay, bài thuốc này đã được nghiên cứu và ứng dụng trong điều trị các bệnh về tim mạch, tâm thần kinh.

Thành phần bài thuốc: Sinh địa hoàng 120g; Nhân sâm 18g; Đan sâm 15g; Huyền sâm 15g; Phục linh 15g; Ngũ vị tử 15g; Viễn chí 15g (bỏ lõi); Cát cánh 15g; Đương quy thân 60g; Thiên môn đông 60g (bỏ lõi); Mạch môn đông 60g (bỏ lõi); Bá tử nhân 60g; Toan táo nhân 60g.

Các vị thuốc trên tán thành bột mịn, luyện mật làm hoàn (mật hoàn) to bằng hạt ngô đồng (khoảng 9 - 12g), áo bên ngoài bằng bột Chu sa, mỗi lần uống 1 hoàn cùng với nước đun sôi để nguội vào lúc đói. Nếu có thể nên dùng nước sắc Long nhãn để uống cùng thì càng tốt. Khi uống thuốc kỵ dùng Đại toán (tỏi), La bặc (củ cải), Ngư tinh thảo (Rau diếp cá), Rượu cao lương.

Ảnh minh hoạ: Internet.

Công dụng và chủ trị của bài thuốc

Bài thuốc “Thiên vương bổ tâm đan” có tác dụng bổ tâm an thần, tư âm dưỡng huyết.

Chủ trị các chứng bệnh do âm hư, huyết hư, tâm thận âm hư gây ra như: Hư phiền (hồi hộp, bồn chồn), thất miên (mất ngủ), tâm quý (hồi hộp đánh trống ngực đặc biệt là khi có sự stress tinh thần hoặc gắng sức), mộng tinh (mơ ngủ xuất tinh), kiện vong (hay quên, trí nhớ suy giảm), đại tiện táo kết, miệng lưỡi nhiệt lở loét, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng ít, mạch tế sác (nhanh và nhỏ)…

Theo nghiên cứu hiện đại và thực tế lâm sàng, bài thuốc “Thiên vương bổ tâm đan” dùng để phòng chống các bệnh lý về tim mạch (viêm cơ tim, thiểu năng mạch vành, rối loạn thần kinh tim, rối loạn nhịp tim), suy nhược thần kinh, rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm thần, rối loạn sinh dục nam – nữ, hội chứng tiền mãn kinh, hội chứng rối loạn tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não, viêm gan, miệng lưỡi lở loét…

Tác dụng dược lý của bài thuốc

Trong bài thuốc có sử dụng đến 3 loại sâm (Nhân sâm, Huyền sâm, Đan sâm), mỗi loại sâm có tác dụng khác nhau, phối ngũ cùng các vị thuốc khác có tính năng tương tự để tạo nên tác dụng cho toàn bài thuốc.

Bài thuốc có dùng lượng nhiều Sinh địa, có tác dụng bổ âm, tư thận thuỷ, vào huyết phận để dưỡng âm huyết. Sử dụng Huyền sâm cùng với Thiên môn đông, Mạch môn đông để tư âm, lương huyết, thanh hư hoả. Đương quy thân bổ huyết, Đan sâm bổ huyết hoạt huyết, làm tăng tác dụng tư âm dưỡng huyết. Nhân sâm đại bổ nguyên khí, Phục linh bổ tâm khí, an thần ninh tâm. Ngũ vị tử, Viễn chí liễm âm tâm sinh tân. Bá tử nhân, Toan táo nhân có tác dụng định tâm an thần. Cát cánh có tác dụng dẫn thuốc đi lên. Bao ngoài đan dược bằng bột Chu sa có tác dụng trấn kinh an thần.

Bài thuốc vừa có tác dụng trị vào bản (gốc bệnh) là âm huyết bất túc, vừa có tác dụng trị vào tiêu (ngọn) là chứng hư phiền. mất ngủ. Pháp chữa trị cả tiêu lẫn bản giúp cho âm huyết được đầy đủ các chứng bệnh kể trên sẽ tự hết.

Theo nghiên cứu của y học hiện đại cho thấy, bài thuốc “Thiên vương bổ tâm đan” có tác dụng điều hòa sự hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương, điều hòa hoạt động của tim mạch. Nghiên cứu trên động vật thực nghiệm đã chứng minh bài thuốc còn giúp tăng lưu lượng máu động mạch vành nuôi tim, tăng sức bóp cơ tim và sức chịu đựng của tế bào cơ tim khi gặp điều kiện thiếu Oxy. Ngoài ra, bài thuốc này còn có tác dụng tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng, giúp cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh bên ngoài.

Tiến sĩ - Lương y Phùng Tuấn Giang

(Thọ Xuân Đường)

Ô tặc cốt giúp giảm đau, cầm máu

Ô tặc cốt chứa muối calci dưới thể carbonat, phosphat, sulfat), các chất hữu cơ và chất keo. Theo Đông y, mai mực vị mặn, tính ôn, vào kinh can và thận. Có tác dụng liễm huyết cầm máu, cố kinh chỉ đới, còn có tác dụng chế ngự chua, hút thấp. Vị thuốc này nghiền thành bột uống có tác dụng tốt hơn là dùng thuốc sắc.

Ô tặc cốt được dùng làm thuốc trong các trường hợp:

Liễm huyết cầm máu:

Bài 1: Thang cố xung: ô tặc cốt 16g, xuyến thảo 8g, tông thán 6g, ngũ bội 6g, long cốt 12g, mẫu lệ 12g, địa du 12g, bạch truật 12g, hoàng kỳ 12g, bạch thược 12g, cam thảo 4g. Sắc uống. Dùng khi đại tiểu tiện ra máu, trĩ ra máu, phụ nữ băng huyết, chảy máu phổi, dạ dày.

Bài 2: ô tặc cốt, phấn hoa tùng, liều lượng bằng nhau. Nghiền riêng từng vị, rây, trộn đều, thêm ít băng phiến, rắc lên vết thương, ấn hay buộc chặt. Trị chảy máu do chấn thương.

Giảm chua, giảm đau: Dùng khi loét dạ dày, tá tràng, ợ chua dạ dày quá nhiều, đau dạ dày.

Bài 1: ô tặc cốt 8 phần, diên hồ sách 1 phần, khô phàn 4 phần. Các vị nghiền chung thành bột mịn, thêm 6 phần mật làm hoàn. Ngày 3 lần, mỗi lần 12g, uống sau bữa ăn.

Bài 2 - Bột ô bối: ô tặc cốt 85%, bối mẫu 15%. Các vị nghiền thành thuốc bột. Mỗi lần uống 4g, uống trước bữa ăn.

Thu thấp, thu mụn nhọt:

Bài 1: ô tặc cốt, liều lượng vừa đủ, nghiền thành bột mịn, đắp vào chỗ đau (người có hoả độc nhiều thì thêm hoàng bá, hoàng liên). Dùng khi loét lâu không lành.

Bài 2: ô tặc cốt, băng phiến. Các vị nghiền thành bột thật mịn. Chấm lên khoé mắt. Trị kéo màng.

Cố kinh chỉ đới:

Bài 1: ô tặc cốt 63g, than quán chúng 30g, tam thất 8g. Các vị nghiền chung thành bột mịn. Mỗi lần 12g, chiêu với nước đun sôi. Trị bạch đới.

Bài 2: ô tặc cốt 16g, lộc giác sương 12g, phục linh 12g, bạch truật 12g, bạch chỉ 12g, bạch thược 12g, bạch vĩ 12g, mẫu lệ 12g, sơn dược 16g. Các vị nghiền thành bột, làm hoàn. Mỗi lần 8g, ngày uống 8 - 12g hoặc sắc uống. Trị xích bạch đới.

Kiêng kỵ: Người âm hư nhiệt nhiều không được dùng ô tặc cốt.

Uống thuốc quá lâu, uống nhiều dễ bị táo bón, nên dùng thêm thuốc nhuận tràng.

TS. Nguyễn Đức Quang

Cách trị bệnh tiêu chảy đơn giản mà hiệu quả

Gừng tươi nướng: Khi bị tiêu chảy, nôn do ngộ độc thức ăn, chỉ cần lấy một củ gừng, rửa sạch, nướng lên. Sau đó, cạo vỏ gừng, rửa lại một lần nữa cho sạch vết cháy. Cắt gừng thành từng miếng bỏ vào cốc hãm uống như trà có tác dụng ôn ấm tỳ vị, giúp cầm tiêu chảy rất tốt.

Nước sắc vỏ rụt, vỏ quýt: Dùng trong trường hợp tiêu chảy doăn uống đồ sống lạnh, tổn thương tỳ vị, tiêu hóa không được: Vỏ rụt (sao vàng) 40g, vỏ quýt (sao thơm) 20g, vỏ vối (sao vàng) 20g, củ sả (sao vàng) 20g, củ gấu (giã giập sao vàng) 40g. Các vị đều sấy khô tán nhỏ rây mịn, cho vào lọ nút kín dùng dần. Người lớn mỗi lần uống từ 6-8g với nước đun sôi để nguội. Trẻ em mỗi lần uống từ 2-6g hòa với nước sôi, hãm một lúc, gạn lấy nước uống.

Nước sắc lá ổi: Dùng trong trường hợp bị tiêu chảy do lạnh: Búp ổi 20g sao qua, vỏ quýt khô 10g, gừng nướng chín 10g. Tất cả cắt nhỏ, sắc với 400 ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Hoặc: Búp ổi 20g, vỏ măng cụt 20g, gừng nướng 10g, gạo rang 20g sắc kỹ lấy nước uống nhiều lần trong ngày. Hoặc: Búp ổi 20g, củ sả 16g, củ riềng 8g. Thái nhỏ, sao qua, sắc lấy nước đặc uống.

Cháo củ kiệu, cháo chim bồ câu: Dùng cho người bị tiêu chảy do tỳ vị hư hàn: Cháo củ kiệu:Củ kiệu 50g, rửa sạch thái lát 50g, thịt ức gà 50g thêm gia vị, xào chín, cho vào nồi cháo đã nấu nhừ, ăn khi còn nóng. Cháo chim bồ câu: Chim bồ câu non 1 con làm sạch, gạo nếp 100g, thêm gia vị rau mùi tàu, hành hoa, gừng tươi gia vị vừa đủ, nấu cháo, ăn nóng.

Lá mơ trứng gà: Nếu bị đau bụng, tiêu chảy phân nhầy do lỵ dùng lá mơ lông tươi 50g thái nhỏ, trộn trứng gà 1 quả thêm gia vị hành tiêu vừa đủ chưng hấp chín ăn.

Súp cà rốt: Dùng tốt cho trẻ đang bị tiêu chảy: Cà rốt tươi 500g, rửa sạch, gọt vỏ, cắt khoanh mỏng, đun nhỏ lửa với 2 lít nước trong 1 giờ, để cho cạn còn 1 lít, vớt cà rốt ra, đem nghiền kỹ, lọc qua vải thưa, loại bỏ bã, cho thêm 3g muối rồi đun sôi lại. Nấu cháo hoặc súp với thịt lợn nạc hoặc thịt gà, nấu nhừ và loãng hơn bình thường, cho thêm khoảng 100ml súp cà rốt. Cho trẻ ăn ít một, ăn nhiều bữa (6-8 bữa một ngày). Khi trẻ bớt tiêu chảy, cho giảm bớt lượng súp cà rốt, tăng dần lượng cháo đến khi khỏi hẳn.

BS. Thu Vân

Đông y chữa bệnh thiếu máu do suy tủy

Thiếu máu do suy tủy là một loại bệnh do chức năng tạo máu của tủy xương suy giảm. Sự suy giảm chức năng sinh máu này có thể ảnh hưởng đến số lượng máu của một dòng hoặc của cả 3 dòng. Bệnh này trên lâm sàng thường có triệu chứng thiếu máu tiến triển, chảy máu và nhiễm khuẩn nhiều lần tái phát. Y học hiện đại cho là suy tủy xương được coi như xảy ra do tổn thương tế bào gốc, hoặc do tổn thương các vi mô lân cận tạo thành một môi trường không thích hợp cho sự sinh sản và trưởng thành của các tế bào máu. Tuy nhiên có hơn một nửa bệnh nhân là nguyên phát, chỉ có một số ít là thứ phát, từ một số bệnh nhiễm khuẩn, virút nặng do độc tố ức chế chức năng tạo máu của tủy xương. Bệnh này thuộc phạm trù các chứng “hư lao”, “huyết chứng” trong Đông y.

Bệnh suy tủy có thể chia các thể bệnh điều trị như sau:

Khí huyết lưỡng hư

Triệu chứng khởi bệnh từ từ, sắc mặt tái nhợt, váng đầu, khó thở mệt mỏi, chán ăn tiêu phân lỏng, chất lưỡi nhợt rêu mỏng, mạch hư huyền. Thỉnh thoảng có trường hợp có chảy máu ở da cơ. Phương pháp chữa: ích khí dưỡng huyết.

Bài thuốc: Bát trân thang gia giảm: nhân sâm 3g (nếu dùng đảng sâm 12g), thục địa 16g; kỷ tử, đương quy, bạch thược, bạch truật, bạch linh đều 12g; xuyên khung, cam thảo đều 6g, đại táo 15g. Nếu tâm hư hồi hộp thêm ngũ vị tử 6g, long cốt 30g (sắc trước); xuất huyết cơ da thêm tiên hạc thảo 15g, hạn liên thảo 12g.

suy tuy

Gan thận âm hư

Triệu chứng sắc mặt tái nhợt, hoa mắt chóng mặt, ù tai, bứt rứt mất ngủ, khung đùi đau mỏi, họng khô miệng táo, chảy máu mũi, máu răng thường thấy. Đầu lưỡi đỏ, rêu mỏng, mạch huyền tế sác. Phương pháp chữa: tư dưỡng can thận.

Bài thuốc: Đại bổ nguyên tiễn gia giảm: nhân sâm 3g, thục địa 16g; sơn thù, đương quy, hà thủ ô, chích quy bản đều 9g; đỗ trọng, kỷ tử, bạch thược, hoài sơn đều 12g; cam thảo 6g. Nếu xuất huyết nhiều bỏ đương quy, đỗ trọng, thêm hạn liên thảo, nữ trinh tử, tiên hạc thảo đều 12g, bột sâm tam thất 5g (hòa thuốc sắc uống). Chảy máu cam thêm bạch mao căn, trắc bá diệp đều 12g; sốt thêm thanh hao, địa cốt bì, đơn bì đều 12g.

Tỳ thận dương hư

Triệu chứng sắc mặt tái nhợt hoặc vàng xạm, môi móng trắng bệch, hoa mắt chóng mặt tinh thần mệt mỏi, hồi hộp ù tai, chán ăn, tiêu phân lỏng, sợ lạnh, chân tay lạnh, lưỡi bệu nhợt rêu trắng, mạch trầm tế. Phương pháp chữa: ôn thận bổ tỳ, ích khí dưỡng huyết.

Bài thuốc: Hữu quy hoàn gia giảm: đảng sâm, hoài sơn, hoàng kỳ, đại táo đều 15g, bạch truật, phục linh, thục địa, thỏ ty tử, kỷ tử, đỗ trọng đều 12g, sơn thù, lộc giác giao, đương quy, thục phụ tử đều 9g, nhục quế 2g, cam thảo 6g. Nếu sợ lạnh nhiều, tiêu lỏng thêm bổ cốt chi 9g, tiên linh tỳ 12g.

m dương lưỡng hư

Triệu chứng lòng bàn chân tay nóng, ra mồ hôi trộm miệng khát là chứng âm hư, lại sợ lạnh, sắc mặt tái, chân tay phù, tiêu lỏng là biểu hiện của chứng dương hư. Lưỡi bệu khô, mạch tế sác vô lực. Phương pháp chữa: bổ âm ích dương.

Bài thuốc: Hữu quy hoàn hợp tả quy hoàn gia giảm: thục địa, sơn thù, kỷ tử, thỏ ty tử, ngưu tất, đương quy đều 9g, hoài sơn, lộc giác phiến, đỗ trọng, quy bản đều 12g. Nếu thiên về âm hư thêm hà thủ ô 12g, nhục thung dung 8g; thiên về dương hư thêm nhục quế 2g, phụ tử 9g.

suy tuyCây thổ phục linh

Nhiệt độc dinh huyết

Triệu chứng sốt không giảm, sắc mặt tái nhợt, đau đầu chóng mặt, chảy máu cam hoặc nôn ra máu, tiêu phân có máu,ban xuất huyết, phụ nữ kinh nguyệt kéo dài. Lưỡi tái nhợt, rêu vàng táo, mạch hư đại sác. Phương pháp chữa: lương huyết giải độc.

Bài thuốc: Tê giác địa hoàng thang gia giảm: tây dương sâm, xích thược, liên kiều đều 9g; sinh địa, đơn bì, đại thanh diệp đều 15g; bột sừng trâu 20g (hòa uống); bột sâm tam thất 5g (hòa uống). Trường hợp bệnh nhân sốt cao mê sảng, dùng tử tuyết đơn 4g/viên hoặc cho uống thuốc tây hạ sốt.

LY.DS. BÀNG CẨM

Bài thuốc chữa bầm tím do ngã

Bài 1: Bột cúc tần 800g, bột quế chi 160g, bột đại hoàng 80g, sáp ong 200g, dầu thầu dầu 2 lít. Các vị trên tán nhỏ, rây thành bột mịn, đun sôi dầu thầu dầu, cho sáp ong vào, đánh tan, rồi tắt lửa, cho bột thuốc vào đánh nhuyễn làm thành cao, đắp vào chỗ tổn thương có tác dụng lưu thông khí huyết, tiêu viêm, giảm đau. Nếu có điều kiện nên làm cao thuốc này để dùng dần khi chẳng may bị ngã có tổn thương bầm tím, sưng đau.

Quế chi.

Bài 2: Củ nghệ vàng già 100g, vỏ cây gạo 100g. Hai vị bỏ vỏ, rửa sạch, giã nát, xào với rượu và giấm thanh rồi chườm hoặc đắp vào vết thương khi còn nóng.

Bài 3: Lá móng tay, ngải cứu, huyết giác, mỗi vị 12g; tô mộc 10g; nghệ 8g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 4: Lá hẹ tươi 50-100g rửa sạch, giã nát, trộn với 10g đường đỏ rồi đắp vào vết thương, mỗi ngày một lần.

Bài 5: Ngải cứu tươi, nghệ vàng, lá cúc tần tươi, mỗi thứ 1 nắm, rửa sạch, giã nhuyễn rồi băng đắp vào vết thương.

Ngải cứu.

Bài 6: Lá mua rửa sạch, giã nhỏ, xào với giấm, đắp lên chỗ tổn thương khi còn ấm, mỗi ngày thay 1 lần.

Bài 7: Huyết giác, dây đau xương, vỏ bông gạo, rau dừa nước mỗi vị 40g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 3-5 ngày.

Bài 8: Củ nghệ tươi giã nát cùng phèn chua đem xoa bóp lên vết thương, vết bầm tím do ngã rất có hiệu quả.

Nghệ vàng.

Bài 9: Lá ngải cứu 30g, củ nghệ 100g, búp cây ớt 10 ngọn, rượu trắng 30ml, giấm thanh 10ml. Nghệ, búp ớt và ngải cứu rửa sạch, giã nhỏ, tẩm rượu và giấm, xào nóng, gói vào gạc, chườm chỗ đau rồi băng lại. Có thể xào đi xào lại nhiều lần trong ngày, chườm vào vết thương khi còn nóng.

Bài 10:Chữa chấn thương bầm tím, đau nhức người do ngã: Dùng rễ cây cơm cháy 20g, sắc với 500ml nước và 200ml rượu, đun nhỏ lửa còn 200ml, lọc bỏ bã, thêm 30g đường trắng trộn đều uống. Dùng mỗi liệu trình 5 ngày. Ngoài ra, dùng rễ cây cơm cháy 20g, giã nát, cho thêm ít rượu, trộn đều, sao nóng, đắp lên những chỗ sưng rồi dùng băng cố định lại, sau 3 giờ  thay thuốc, ngày đắp 2 lần.

BS. Thanh Xuân

Chữa chứng can hỏa phạm phế ở người cao tuổi

Chứng can hỏa phạm phế trong Đông y gọi là “Mộc hỏa hình kim” (mộc thuộc can (gan), kim thuộc phế). Là một loại bệnh do tình chí uất kết ở người cao tuổi. Khí uất hỏa hun đốt ở phế âm, hoặc có khi do tà nhiệt uất kết ở kinh can phạm lên phế, làm phế mất sự túc giáng mà sinh bệnh.

Tang bạch bì.

Chứng can hỏa phạm phế thường phát sinh ở người cao tuổi (cả nam và nữ) vốn có tính tình nóng nảy, dễ cáu giận, bởi vì khi cáu giận là do khí của can nghịch lên, khi khí của can quá mạnh thì sinh ra hỏa, hỏa khí hòa hợp với nhau nghịch lên mà phạm phế kim. Trong quá trình diễn biến bệnh tật thường do mộc hỏa hun đốt xâm phạm phế và lấn át tỳ, làm hao khí ở phế và tổn tân dịch, từ đó mà hình thành chứng khí âm đều hư. Tất cả do can khí nghịch lên mà sinh ra chứng khái thấu (ho) đờm dính khó khạc ra, hoặc ho khan ít đờm, miệng khô họng ráo, khản tiếng, nóng từng cơn về chiều, lòng bàn tay, bàn chân nóng, ra mồ hôi trộm, cơ thể ngày càng gầy, lưỡi tróc từng mảng.

Nếu bệnh nhân ho khan: từng cơn, luôn có cảm giác khí trong ngực nghịch lên mà ho khan, khi ho đau ran ngực và hai mạng sườn, khạc ra đờm vàng dính nhưng ít, mặt đỏ họng khô khát nước, hay cáu giận, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng ít tân dịch, mạch huyền sác.

Bài thuốc: sa sâm 16g; bạch tật lê, sa uyển tật lê, đại giả thạch, thạch hộc, hạnh nhân mỗi vị 12g; cúc hoa, bối mẫu mỗi vị 8g; mạch môn 6g; tang diệp, quất hồng bì, toàn phúc hoa mỗi vị 4g. Ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần trong ngày, trước khi ăn.

Nếu bệnh nhân ho đờm có lẫn máu, hoặc nôn ra máu tươi, ngực sườn đau tức hay giận dữ, đại tiện phân khô kết, nước tiểu vàng đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.

Bài thuốc: Tả bạch tán phối hợp với Long đởm tả can thang: thanh đại, hải cáp xác 24g, cánh mễ 20g, tang bạch bì, địa cốt bì 16g, long đởm thảo, sinh địa, xuyên quy, xa tiền tử 12g, mộc thông, trạch tả 8g, sài hồ 6g, cam thảo 4g. Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

TTND. BS. Nguyễn Xuân Hướng

Bài thuốc dân gian chữa ho khan từ cây bạch truật

Theo y học cổ truyền, ho khan, ho khàn tiếng thuộc chứng phế âm hư. Người bệnh có biểu hiện ho khan, có khi ngứa họng, mất tiếng, ho ít đờm, đờm vàng, miệng khô, đại tiện táo, mạch tế sác. Phép trị chủ yếu bổ âm, mát phế, cầm ho… Dưới đây là một số bài thuốc trị ho khan tuỳ giai đoạn bệnh.

Khi bệnh mới phát, dùng bài Tả bạch tán “Tiền ất phương” gia giảm gồm: tang bạch bì 16g, xuyên bối mẫu 12g, cát cánh 12g, mạch môn 14g, phục linh 14g, hoàng cầm 10g, địa cốt bì 14g, tri mẫu 4g, bạc hà 6g, cam thảo 3g, đại táo 8g, sinh khương 6g. Sắc uống, trẻ em dùng 1/2 hoặc 1/3 liều trên, có thể cho ít mật ong cho dễ uống. Tác dụng: thanh tả phế nhiệt, bình suyễn, chỉ khái… Trị chứng ho khan, ho cơn, ho không nghe tiếng đàm, đại tiện táo, tiểu vàng, mặt đỏ… Gia giảm: nếu ho đàm nhiều, gia xuyên bối mẫu 12g; nếu sốt, ho khan, gia tang diệp 14g, ngưu bàng tử 12g; đại tiện táo khó, gia hạnh nhân 14g.

Rễ củ khô của cây bạch truật.

Lưu ý: trẻ ho suyễn, ho đàm nhiều loãng, tỳ phế hư hàn bên trong không nên dùng.

Nếu uống bài trên mà đại tiện vẫn táo kết, vẫn còn sốt, đau họng: nên phối hợp bài Lương cách tán “Cục phương” gia giảm gồm: tang bạch bì 14g, cát cánh 10g, hoàng cầm 12g, đại hoàng 4g, liên kiều 14g, hạnh nhân 14g, cam thảo 4g, chi tử 10g, bạc hà 12g, trúc diệp 14g, cát cánh 10g, tang diệp 14g. Sắc uống. Trẻ em dùng liều 1/2 hoặc 1/3, có thể cho ít mật ong cho dễ uống… Tác dụng: thanh giải tích nhiệt ở thượng tiêu và trung tiêu… Trị ho khan đau họng, táo bón, nước tiểu đỏ…

Lưu ý: không dùng cho người ho đàm loãng, sốt ít, lạnh nhiều.

Nếu hết sốt, đại tiện lỏng, ăn ít, bụng đầy, nên phối hợp bài Sâm linh bạch truật tán “Cục phương” gia giảm gồm: đảng sâm 12g, bạch truật 14g, phục linh 14g, biển đậu 16g, ý dĩ 16g, hoài sơn 6g, liên nhục 14g, trần bì 12g, sa nhân 6g, cát cánh 10g, chích thảo 4g, sinh khương 6g. Sắc uống. Trẻ em dùng liều 1/2 hoặc 1/3 người lớn… Tác dụng: bổ khí, kiện tỳ, thẩm thấp, hòa vị, trị tỳ vị hư. Trị ho đàm lâu ngày, ăn ít, đại tiện lỏng, cơ thể mệt mỏi thuộc thể tỳ phế khí hư. Gia giảm: có ho sốt, gia hoàng cầm 10g, tang bạch bì 12g…; miệng khô, gia mạch môn 12g…; ho đàm nhiều, gia xuyên bối mẫu 12g.

Lương y: Minh Phúc

Sò huyết chữa suy nhược

Sò huyết còn gọi là sò trứng hay sò tròn. Sò huyết chứa nhiều chất dinh dưỡng với nguồn chất đạm phong phú, ít mỡ, nhiều chất khoáng, có tác dụng tốt với bệnh tăng huyết áp, suy nhược cơ thể, lao phổi. Thịt sò và vỏ sò đều được y học cổ truyền dùng làm thuốc. Vỏ sò đã lấy hết thịt, rửa sạch, đập vụn cho vào nồi đất trát kín, nung đến khi đỏ hồng. Lấy ra để nguội, tán nhỏ, rây bột mịn hoặc nhúng ngay vỏ sò đang hồng vào giấm với tỷ lệ 1kg vỏ sò với 100ml giấm rồi tán bột mịn.

Theo đông y, sò huyết có vị ngọt, mặn, tính ấm có tác dụng bổ huyết, ôn trung, kiện vị, chữa chứng huyết hư, thiếu máu, viêm loét dạ dày - tá tràng, tiêu hóa kém.

Sò huyết chữa suy nhược cơ thể.

Chữa cơ thể suy nhược, lao phổi: thịt sò huyết 100g, nấu chín hoặc phối hợp với lá hẹ 100g, ninh nhừ, ăn làm 2 lần trong ngày.

Chữa kinh nguyệt ra nhiều:thịt sò huyết 100g nấu với thịt lợn 50g, ăn trước khi hành kinh.

Chữa tăng huyết áp, béo phì:thịt sò huyết 100g, thảo quyết minh 50g, nấu chín ăn 1 bữa trong ngày.

Chữa đau dạ dày, ợ chua: vỏ sò huyết tán bột. Ngày uống từ 12 - 20g dưới dạng nước sắc, uống trước bữa ăn..

Chữa đại tiện ra máu: bột vỏ sò ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15g, uống với nước ấm.

Chữa cam răng:bột vỏ sò uống ngày 3 lần sáng, trưa, tối, mỗi lần 3-5g .

Chữa tụ máu, bầm tím:bột vỏ sò ngày uống 2 lần (sáng và tối), mỗi lần 10-15g, uống với nước ấm, có thể hòa chút rượu trắng uống.

Thuốc bổ dương: Dùng một trong số món ăn bài thuốc sau:

Cháo sò huyết: gạo tẻ 200g, sò huyết tươi 500g, trứng vịt muối 1 quả, gừng, gia vị, hành, hạt tiêu. Sò huyết rửa sạch bùn đất, đun sôi nước rồi thả vào, ngâm 5 phút vớt ra, cạy lấy thịt. Sau đó xào sò huyết với dầu, hành gia vị cho thơm. Gạo tẻ nấu nhừ thành cháo. Khi cháo chín, cho trứng muối và sò huyết vào khuấy đều là dùng được.

Sò huyết xào mì: mì (nui) 100g, sò huyết 100g, cà chua, nấm rơm, hành tây, gia vị vừa đủ. Thịt sò huyết sốt cùng với cà chua, nấm rơm thái nhỏ. Phi thơm tỏi rồi cho mì (nui) đã luộc chín vào xào. Trút mì ra đĩa, cho hỗn hợp sò huyết xào nấm, cà chua lên trên, trộn đều. Ăn nóng.

Sò huyết sốt me: sò huyết 1kg, me chín 300g, đường, muối, tỏi, gia vị vừa đủ. Sò huyết rửa sạch, để ráo nước. Me chín bỏ hạt. Sò huyết hấp, lấy thịt. Phi hành tỏi rồi cho sò huyết, me chín xào to lửa, nêm gia vị, ăn nóng.

BS. Lê Thị Hương

Dầu dừa có thể hỗ trợ chữa ung thư trực tràng?

Đa phần những người bị chẩn đoán mắc ung thư lâu nay hoặc đành chuẩn bị tâm lý nằm yên chờ “tử thần” gõ cửa, hoặc sẵn sàng vung tiền bằng mọi giá để phẫu thuật, hóa trị hay xạ trị hòng kéo dài sự sống. Ít ai dám hy vọng rằng một ngày nào đấy, họ có thể vượt qua căn bệnh hiểm nghèo – ung thư trực tràng – chỉ với loại thực phẩm thiên nhiên mang tên dầu dừa. Thế nhưng, ngoài dự đoán, điều đó đang dần trở thành hiện thực.

Theo một nghiên cứu mới đây đăng trên tạp chí Nghiên cứu Ung thư, các phân tử Axit lauric (hay Axit dodecanoic) chiếm tỷ lệ 47,5% trong dầu dừa ngoài tính chất kháng khuẩn còn có đặc tính quan trọng là chống ung thư. Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học thuộc trường Đại học Adelaide (Úc) đã phát hiện ra rằng loại axit này dễ dàng tiêu diệt hoàn toàn tới hơn 90% tế bào ung thư trực tràng chỉ sau vỏn vẹn 48 tiếng đồng hồ thử nghiệm trên một dòng tế bào ung thư trực tràng ngay trong ống nghiệm. Các nghiên cứu lâm sàng trước đó đã hé lộ vô số công dụng “thần kỳ” của dầu dừa. Bên cạnh công dụng làm đẹp da mà hầu như ai cũng biết, dầu dừa còn giúp ngăn ngừa các bệnh lý bệnh tim mạch, phòng và hỗ trợ điều trị hiệu quả bệnh viêm khớp, tiểu đường cùng một số bệnh liên quan đến virus…
Được biết, suốt khoảng thời gian nghiên cứu trong ống nghiệm, nhóm nghiên cứu liên tục tiến hành những thử nghiệm trong một chiếc đĩa petri dùng để cấy vi khuẩn hoặc thực hiện tiến trình ấy trong một môi trường đã được kiểm soát, bên ngoài cơ thể sống. Việc kết quả nghiên cứu chưa được chứng thực trên chính các cơ thể sống có vẻ như đang làm dấy lên những hoài nghi về công dụng chữa trị ung thư của dầu dừa. Để được giới khoa học thừa nhận, nhóm nghiên cứu nói trên sẽ cần phải mất thêm nhiều thời gian, công sức và tiền bạc nhằm chứng minh phát hiện của mình thông qua những thử nghiệm trên cơ thể sống.

Hạt tiêu đen chữa bệnh

Trị ho

Bỏ một vài hạt tiêu đen, một ít hạt jeera và một vài miếng đá muối vào bát. Trộn 3 loại này và ngậm trong miệng. Bài thuốc này giúp trị ho gà cũng như những cơn ho liên tục.

Loại bỏ sốt

Bỏ một vài hạt tiêu và 1 thìa đường vào bát. Cho thêm nước, trộn đều và dùng. Bài thuốc này giúp loại bỏ sốt.

Trị cảm lạnh

Cho một vài hạt tiêu đen vào cốc sữa. Thêm một nhúm bột nghệ khuấy lên và uống. Loại nước này sẽ giúp trị cảm lạnh, chống các bệnh truyền nhiễm.

Hat-tieu-den-chua-benh

Chữa bệnh về răng

Nghiền hạt tiêu đen thành bột và thoa bột này lên nướu răng. Loại gia vị này có thể hỗ trợ điều trị bệnh lợi và cũng trị hơi thở hôi.

Trị đau răng khôn

Cho 1 thìa bột hạt tiêu đen vào bát. Bỏ 1 thìa mật ong và trộn thành một loại hỗn hợp. Mát-xa lợi với hỗn hợp này nếu bạn đang bị đau răng khôn.

Tăng cảm giác thèm ăn

Bột hạt tiêu đen có thể làm tăng cảm giác thèm ăn của bạn. Hãy cho một chút hạt tiêu vào cốc sữa bơ. Uống loại đồ uống này 2 lần/ngày để làm tăng sự thèm ăn của bạn.

Miệng khô

Miệng khô là tình trạng thường gặp khi bạn bị mất nước. Để thoát khỏi tình trạng này hãy bỏ vài hạt tiêu đen vào nước và uống. Cách này sẽ giúp bạn tránh mất nước.

Tốt cho não

Hãy cho hạt tiêu đen vào thực phẩm của bạn vì loại gia vị này có tác dụng như một loại thuốc bổ não. Thuộc tính của nó giúp cải thiện sự tập trung và kỹ năng vận động.

Tốt cho mắt

Trộn 1 thìa bột hạt tiêu, 1 thìa mật ong và 20ml sữa. Uống loại hỗn hợp này vào sáng sớm có thể giúp cải thiện thị lực.

Trị chứng khó tiêu

Nếu bị khó tiêu hãy bỏ vài hạt tiêu đen vào nước uống. Bạn cũng có thể bổ sung thêm vài hạt jeera.

Hỗ trợ giảm cân

Bất cứ loại gia vị nóng nào cũng đều có tác dụng giảm cân. Hãy thêm loại gia vị thơm ngon này vào chế độ ăn hàng ngày của bạn để giảm cân nặng dư thừa.

Trị dị ứng

Đun một nồi nước sôi, cho một vài hạt tiêu đen, hạt tiêu trắng và một chút đường, cũng có thể thêm một chút gừng. Uống loại nước này sẽ giúp trị dị ứng. Nếu tình trạng kéo dài bạn cần đi khám bác sĩ.

Long đờm

Hạt tiêu đen giúp làm loãng đờm khô mắc kẹt trong đường hô hấp. Bạn cần nhâm nhi nước tiêu nóng để làm dịu hơi thở.

BS. Tuyết Mai/Univadis

(theo Boldsky)